2 trường hợp không có tên trong di chúc vẫn hưởng thừa kế nhà đất

Khoản 1 Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:

“1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:

  1. a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
  2. b) Con thành niên mà không có khả năng lao động”.

Như vậy, dù không được người lập di chúc cho hưởng di sản thì 02 trường hợp sau vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật:

Trường hợp 1: Cha, mẹ, vợ, chồng của người lập di chúc.

Trường hợp 2: Con chưa thành niên, con thành niên mà không có khả năng lao động.

Việc chỉ định người thừa kế và truất quyền hưởng di sản của người thừa kế là quyền của người lập di chúc. Do đó người lập di chúc có quyền cho con hưởng hoặc không được hưởng di sản của mình.

Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 điều 644 Bộ Luật Dân sự 2015 thì những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn 2/3 suất đó: Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; con thành niên mà không có khả năng lao động.

Theo quy định trên thì trước khi xác lập quyền thừa kế theo di chúc của một cá nhân, cơ quan chức năng có trách nhiệm xác minh hàng thừa kế của người để lại di chúc, để từ đó xác định có hay không có đối tượng được thừa hưởng di sản không phụ thuộc vào di chúc. Khi đó người không có tên trong di chúc sẽ được hưởng phần di sản bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu thuộc trường hợp sau: con chưa thành niên, con thành niên mà không có khả năng lao động.

  1. Việc phân chia di sản theo di chúc được quy định như thế nào?

Căn cứ theo Điều 659 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau:

Phân chia di sản theo di chúc

  1. Việc phân chia di sản được thực hiện theo ý chí của người để lại di chúc; nếu di chúc không xác định rõ phần của từng người thừa kế thì di sản được chia đều cho những người được chỉ định trong di chúc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
  2. Trường hợp di chúc xác định phân chia di sản theo hiện vật thì người thừa kế được nhận hiện vật kèm theo hoa lợi, lợi tức thu được từ hiện vật đó hoặc phải chịu phần giá trị của hiện vật bị giảm sút tính đến thời điểm phân chia di sản; nếu hiện vật bị tiêu hủy do lỗi của người khác thì người thừa kế có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
  3. Trường hợp di chúc chỉ xác định phân chia di sản theo tỷ lệ đối với tổng giá trị khối di sản thì tỷ lệ này được tính trên giá trị khối di sản đang còn vào thời điểm phân chia di sản.
  4. Những trường hợp nào thì di sản chỉ được phân chia sau một thời hạn nhất định?

Căn cứ theo Điều 661 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau:

Hạn chế phân chia di sản

Trường hợp theo ý chí của người lập di chúc hoặc theo thỏa thuận của tất cả những người thừa kế, di sản chỉ được phân chia sau một thời hạn nhất định thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mới được đem chia.

Trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định. Thời hạn này không quá 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn 03 năm mà bên còn sống chứng minh được việc chia di sản vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của gia đình họ thì có quyền yêu cầu Tòa án gia hạn một lần nhưng không quá 03 năm.

Di sản được phân chia sau một thời hạn nhất định theo những trường hợp sau:

– Theo ý chí của người lập di chúc

– Theo thỏa thuận của tất cả những người thừa kế.

Như vậy, bên cạnh việc tôn trọng ý chí của người để lại di sản, pháp luật vẫn quy định một số trường hợp hạn chế quyền định đoạt của người lập di chúc nếu như họ còn có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc những người có mối quan hệ gần gũi trong gia đình. Có thể thấy, pháp luật về thừa kế quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có những quy định cụ thể nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho những trường hợp không có tên trong di chúc về thừa kế.