Sổ đỏ, sổ hồng là gì?
Pháp luật hiện hành không quy định khái niệm “sổ đỏ” hay “sổ hồng” mà đây chỉ là các khái niệm được người dân thường hay sử dụng để chỉ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (theo màu bìa). Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được quy định tại khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai 2013 như sau:
“Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất.”
Sử dụng sổ đỏ, sổ hồng giả để mua bán nhà đất bị xử lý thế nào?
Có thể thấy rằng GCNQSDĐ hay sổ đỏ, sổ hồng được xem là một chứng thư pháp lý mà qua đó, Nhà nước thừa nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản gắn liền với đất của công dân. Mặc dù mang ý nghĩa quan trọng như vậy nhưng hiện nay với lợi dụng sự phát triển của công nghệ hiện đại cùng các thủ đoạn tinh vi khác trong lĩnh vực in ấnmột số cá nhân đã sử dụng sổ đỏ, sổ hồng giả để thực hiện hành vi lừa đảo khi mua bán nhà đất. Đây là hành vi vi phạm pháp luật và có thể bị xử lý theo một trong các trường hợp dưới đây:
- Hình thức xử phạt chính:
Cụ thể, tại Khoản 3 Điều 35 Nghị định 91/2019/NĐ-CP quy định:
“Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với trường hợp sử dụng giấy tờ giả trong thực hiện thủ tục hành chính và các công việc khác liên quan đến đất đai mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự”.
Chiếu theo quy định trên, nếu hành vi sử dụng Giấy chứng nhận giả để chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì bị phạt tối đa là 30 triệu đồng.
- Trường hợp 1: Bị xử phạt vi phạm hành chính
Căn cứ khoản 3 Điều 35 Nghị định 91/2019/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong lĩnh vực đất đai, quy định:
“Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với trường hợp sử dụng giấy tờ giả trong thực hiện thủ tục hành chính và các công việc khác liên quan đến đất đai mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Bên cạnh đó, theo điểm a khoản 1 Điều 6 Nghị định 91/2019/NĐ-CP thì mức phạt tiền này áp dụng đối với cá nhân; mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân (tức từ 20.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng).”
Như vậy, hành vi làm giả sổ đỏ mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì sẽ bị xử lý vi phạm hành chính với số tiền phạt tối đa là 60.000.000 đồng.
- Trường hợp 2: Bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Trường hợp sử dụng sổ đỏ, sổ hồng giả để mua bán nhà đất cho người khác có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội danh lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015. Cụ thể:
Nếu sử dụng thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
- Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
- Đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của BLHS 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
- Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
Bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm nếu việc sử dụng sổ đỏ, sổ hồng giả để lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà hành vi này:
- Có tổ chức;
- Có tính chất chuyên nghiệp;
- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
- Tái phạm nguy hiểm;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
- Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
Bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm đối với trường hợp:
- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
- Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
- Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
- Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Đối với mức xử phạt là truy cứu trách nhiệm hình sự, tùy vào từng hành vi của đối tượng có tính chất và mức độ nghiêm trọng như thế nào mà luật có mức hình phạt cụ thể dành cho tội danh đó. Tuy nhiên thông thường, nhà đất là tài sản có giá trị lớn. Do vậy trong trường hợp sử dụng sổ đỏ, sổ hồng giả để mua bán, chuyển nhượng nhà đất, các đối tượng rất dễ rơi vào trường hợp bị xử lý hình sự và đối mặt với hình phạt rất nặng (đi tù từ 12 đến 20 năm hoặc chung thân) khi chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên.
- Hình thức xử phạt bổ sung
Bên cạnh phạt tiền thì cơ quan có thẩm quyền sẽ tịch thu giấy tờ giả đã sử dụng để thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất (theo Khoản 4 Điều 35 Nghị định 91/2019/NĐ-CP).
- Biện pháp khắc phục hậu quả
Đối chiếu theo Điểm b Khoản 5 Điều 35 Nghị định 91/2019/NĐ-CP, trường hợp cơ quan đăng ký đất đai đã đăng ký biến động vào sổ địa chính mà phát hiện giấy tờ trong hồ sơ đăng ký biến động (hồ sơ đăng ký sang tên là giả) thì hủy bỏ kết quả thủ tục đăng ký biến động khi chuyển nhượng.
Ngoài việc quy định mức phạt đối với hành vi sử dụng giấy tờ giả thì Nghị định 91/2019/NĐ-CP còn quy định mức xử phạt đối với trường hợp khai báo không trung thực, tẩy xóa, sửa chữa giấy tờ nhà đất, cụ thể:
– Phạt tiền từ 4 – 10 triệu đồng đối với trường hợp khai báo không trung thực việc sử dụng đất hoặc tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, chứng từ trong việc sử dụng đất dẫn đến việc cấp Giấy chứng nhận và việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất bị sai lệch mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
– Phạt tiền từ 1 – 3 triệu đồng đối với trường hợp tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, chứng từ trong việc sử dụng đất mà không thuộc các trường hợp trên.
Tóm lại, người dùng sổ đỏ giả để mua bán nhà đất bị xử phạt vi phạm hành chính lên tới 30 triệu đồng nếu bị phát hiện và còn thời hiệu. Nếu thỏa mãn các yếu tố cấu thành Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì bị phạt tù với khung hình phạt cao nhất là chung thân theo Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015.