Quy định về tội ác quốc tế trong pháp luật hình sự Việt Nam

Theo Uỷ ban luật quốc tế, Tội ác quốc tế được xác định là các hành động chống lại luật pháp quốc tế, phát sinh do hành vi vi phạm nghĩa vụ của quốc gia, xâm hại nghiêm trọng đến hoà bình và an ninh quốc tế. Theo khoản 1 Điều 5 Quy chế Rome, Tòa án hình sự quốc tế (ICC) có quyền tài phán đối với các tội phạm nghiêm trọng nhất gây lo ngại cho toàn thể cộng đồng quốc tế (tức tội ác quốc tế). Trong thực tế hiện nay, tình hình tội phạm diễn biến rất phức tạp do tính chất của hành vi phạm tội và hậu quả của tội phạm mà ngày càng có sự xích lại gần nhau giữa tội ác quốc tế và tội phạm theo pháp luật quốc gia nhưng có tính chất quốc tế. Cùng với xu thế hội nhập, Việt Nam đang ngày càng tham gia nhiều hơn vào sự nghiệp giữ gìn hoà bình và an ninh quốc tế. Vì vậy, nghiên cứu các quy định về tội ác quốc tế trong pháp luật quốc tế cũng như pháp luật hình sự Việt Nam càng trở nên có ý nghĩa quan trọng.

1. Khái quát về các loại tội ác quốc tế:

Tội ác quốc tế bao gồm tội diệt chủng, tội chống nhân loại, tội ác chiến tranh và tội xâm lược.

– Tội diệt chủng:

Quy chế Rome đã kế thừa những nội dung của định nghĩa “tội giết chủng” của Công ước quốc tế về ngăn ngừa tội phạm diệt chủng năm 1948, theo đó tội diệt chủng có những đặc điểm:

Một là,thực hiện một hoặc nhiều hành vi nguy hiểm (giết các thành viên của nhóm, gây tổn hại nghiêm trọng về thân thể hay tinh thần cho các thành viên của nhóm; áp dụng các biện pháp nhằm triệt sản trong nhóm; cưỡng chế di chuyển trẻ em của nhóm này sang nhóm khác;

Hai là,đối tượng hướng tới nhằm vào một nhóm dân tộc, sắc tộc, chủng tộc hoặc tôn giáo;

Ba là,có ý định hủy diệt toàn bộ hay một phần nhóm người.

– Tội chống nhân loại

Quy chế Rome đã phân biệt giữa tội phạm thông thường và tội ác chống nhân loại (loài người) thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án theo ba tiêu chí:

Một là, những hành vi cấu thành loại tội phạm này, ví dụ: như hành vi tàn sát, phải là hành vi được thực hiện ở quy mô lớn (phạm vi rộng) hoặc một cách có hệ thống (widespread or systematic attack). Tuy nhiên, hành vi “tấn công” theo Quy chế Rome không chỉ bao gồm sự tấn công quân sự mà còn bao gồm những biện pháp về luật pháp hoặc hành chính như là trục xuất hoặc cưỡng bức di dời chỗ ở.

Hai là, đó phải là những hành vi trực tiếp chống lại một cộng đồng dân cư – chống lại dân thường (against a civilian population). Do đó, những hành vi đơn lẻ, cá thể, tản mác hoặc tình cờ sẽ không được coi là những tội phạm chống lại loài người và không thể bị truy tố về những tội đó.

Ba là, những hành vi này phải được thực hiện theo chính sách của nhà nước hoặc chính sách của tổ chức (a state or organizational policy). Theo đó, những hành vi này có thể do những viên chức nhà nước hoặc những cá nhân hành động do bị cưỡng bức, tự nguyện hoặc chấp nhận. Tội chống loài người có thể được thực hiện theo chính sách của một tổ chức nào đó, chẳng hạn những nhóm phiến loạn mà không có sự liên hệ nào với Nhà nước.

Xét về dấu hiệu, tội chống nhân loại được quy định tại Điều 7 bao gồm:

Một là, thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 7;

Hai là, tấn công trên phạm vi rộng hoặc có hệ thống;

Ba là, đối tượng hướng đến của tội phạm là dân thường;

Bốn là, tội chống nhân loại có thể thực hiện trong thời bình và thời chiến.

* Tội ác chiến tranh

Theo Quy chế Rome, những tội phạm chiến tranh thuộc thẩm quyền xét xử của ICC, được chia thành hai nhóm chính:

Nhóm tội phạm thứ nhất, thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án, là nhóm tội phạm được thực hiện bởi những cá nhân bị cáo buộc là vi phạm nghiêm trọng bốn Công ước Giơnevơ 1949, bao gồm những hành vi nhằm chống lại những người đã được Công ước bảo vệ, bao gồm: thương binh, bệnh binh, các thủy thủ của tàu bị đánh chìm hoặc hư hại, tù binh và những thường dân trong các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng. Cụ thể là: chủ tâm giết chóc, tra tấn hoặc đối xử tàn bạo phi nhân tính, bao gồm cả việc dùng con người để thực hiện những thí nghiệm sinh học; gây ra những tổn hại to lớn hoặc những đau đớn về thể xác hoặc sức khỏe một cách có chủ đích; chiếm đoạt và hủy hoại trên diện rộng đối với tài sản mà không thể hiện hộ bằng các yêu cầu về quân sự và được thực hiện một cách bất hợp pháp và trái đạo lý; ép buộc những tù binh hoặc những người được bảo hộ khác phải gia nhập quân đội của nước thù địch; cố ý tước đoạt quyền được xét xử công khai và công bằng của tù binh chiến tranh hoặc những người được bảo hộ khác; trục xuất, di chuyển, giam giữ một cách bất hợp pháp và bắt làm con tin.

Nhóm tội phạm thứ hai, Tòa án cũng có quyền xét xử, là nhóm tội phạm được cấu thành bởi những hành vi khác vi phạm Luật quốc tế về nhân đạo với một phạm vi rộng, bao gồm những vi phạm được ghi nhận tại Quy tắc La Hay và Nghị định thư I của Công ước Giơnevơ và luật tập quán quốc tế liên quan; những sự tấn công vào thường dân; sự tấn công có chủ định vào cộng đồng dân cư, các mục tiêu dân sự, các đơn vị trợ giúp nhân đạo hoặc giữ gìn hòa bình cũng như sự tấn công vào các mục tiêu mà biết rõ rằng sự tấn công đó sẽ gây ra thiệt mạng hoặc thương vong cho thường dân hoặc thiệt hại cho các mục tiêu dân sự; đe dọa những người không có khả năng tự vệ như giết hoặc gây thương tích những binh sĩ đã đầu hàng; sử dụng những biện pháp bị cấm trong thời chiến như lợi dụng ngừng bắn, cờ, phù hiệu của Liên hợp quốc cũng như Hội Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ, sử dụng các vũ khí bị cấm như đầu độc hoặc vũ khí độc, khí độc, cố ý sử dụng sự đói khát của thường dân làm công cụ chiến tranh, tuyển mộ hoặc cưỡng bức nhập ngũ đối với trẻ em dưới 15 tuổi hoặc sử dụng trẻ em trong chiến đấu. Đồng thời, các hành vi vi phạm luật và tập quán khác (áp dụng cho các cuộc xung đột vũ trang không mang tính quốc tế) nhằm vào những người không trực tiếp tham gia chiến đấu, kể cả những người thuộc lực lượng vũ trang đã hạ vũ khí hoặc không tham chiến do bị ốm, bị thương, bị giam giữ hoặc vì lý do khác, cũng đều bị coi là tội phạm chiến tranh và thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án. Những hành vi đó là: xâm hại tính mạng, thân thể con người (giết người, gây thương tích, đối xử độc ác và tra tấn); hạ nhục nhân phẩm con người; bắt giữ con tin; ra phán quyết và thi hành bản án một cách không hợp thức; cố tình tấn công thường dân, cố tình mở cuộc tấn công nhằm vào nhân viên hoặc thiết bị cứu trợ nhân đạo hoặc giữ gìn hòa bình theo Hiến chương Liên hợp quốc; thực hiện hành vi hãm hiếp, nô lệ tình dục, cưỡng ép bán dâm, cưỡng ép mang thai, cưỡng chế sinh sản và bất kỳ hình thức bạo lực tình dục nào khác; dời chuyển một cách trực tiếp hoặc gián tiếp dân cư của mình sang lãnh thổ bị chiếm đóng, hoặc trục xuất hoặc di chuyển toàn bộ hoặc một phần dân cư của vùng chiếm đóng, tước bỏ hoặc đình chỉ các quyền hợp pháp của công dân phe đối địch hoặc cưỡng ép họ tham gia vào các hoạt động quân sự chống lại chính nước của họ…[1]

Nếu phân chia chi tiết hơn nữa, Điều 8 Quy chế Rome đã định nghĩa tội phạm chiến tranh gồm bốn nhóm chính.

Nhóm 1: Những hành vi vi phạm nghiêm trọng các Công ước Giơnevơ 1949 áp dụng cho các cuộc xung đột vũ trang mang tính quốc tế với điều kiện được thực hiện như một phần trong một kế hoạch hoặc chính sách hoặc như một phần của tội phạm này được thực hiện trên quy mô lớn (điểm a khoản 2 Điều 8).

Nhóm 2: Những hành vi khác vi phạm nghiêm trọng luật pháp và tập quán được áp dụng trong xung đột vũ trang có tính chất quốc tế (điểm b khoản 2 Điều 8). Ở nhóm này, các hành vi chủ yếu bắt nguồn từ Công ước La Hay 1907; Nghị định thư bổ sung I các Công ước Giơnevơ năm 1977. Tuy nhiên, Quy chế Rome cũng quy định một số điểm mới đó là thừa nhận các hành vi vi phạm về giới tính, tình dục, cưỡng bức nhập ngũ, tuyển mộ trẻ em dưới 15 tuổi vào quân ngũ và tấn công nhân viên làm công tác nhân đạo là tội ác chiến tranh.

Nhóm 3: Những hành vi vi phạm nghiêm trọng Điều 3 chung của các Công ước Giơnevơ ngày 12/8/1949 trong trường hợp xung đột vũ trang không mang tính chất quốc tế, cụ thể là bất kỳ hành vi nào được thực hiện nhằm vào những người không tham gia tích cực vào chiến sự, kể cả các binh sĩ đã hạ vũ khí và những người đã bị loại khỏi vòng chiến đấu do bị ốm, bị thương, bị giam giữ hay vì bất kỳ lý do nào khác (điểm c khoản 2 Điều 8).

Nhóm 4: Những hành vi khác vi phạm nghiêm trọng luật và tập quán áp dụng trong xung đột vũ trang không mang tính quốc tế, trong khuôn khổ pháp luật quốc tế (điểm e khoản 2 Điều 8). Cần lưu ý một điểm là những tội phạm này chỉ có thể xảy ra khi có xung đột vũ trang diễn ra trên lãnh thổ của một quốc gia giữa quân đội của quốc gia đó với các nhóm vũ trang có tổ chức hoặc giữa các nhóm này với nhau (điểm f khoản 2 Điều 8).

* Tội xâm lược

Quy chế Tòa án Hình sự quốc tế không ghi nhận định nghĩa pháp lý của tội xâm lược, mặc dù khái niệm này có thể hiểu là bất kỳ một hành vi nào được liệt kê cụ thể tại Điều 6 – Hiến chương Tòa án Quân sự quốc tế Nuremberg năm 1945 và điểm a – Điều 5 Hiến chương Tòa án Quân sự quốc tế Tokyo năm 1946, cũng như Điều 3 Định nghĩa về xâm lược – văn bản do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1974. Trước Quy chế Rome, Tòa án Nuremberg đã lên án chiến tranh xâm lược, coi hành động gây chiến tranh xâm lược không chỉ là tội phạm quốc tế, mà còn là tội phạm quốc tế nghiêm trọng nhất. Năm 1974, Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua định nghĩa xâm lược, theo đó xâm lược về bản chất là hành động của một quốc gia chống lại một quốc gia khác. Uỷ ban pháp luật quốc tế của Liên hợp quốc đã xác định việc cá nhân cũng có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi xâm lược và chỉ những người ở vị trí lãnh đạo ra lệnh hoặc tham gia tích cực vào các hoạt động trên mới có thể phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, rõ ràng định nghĩa của Uỷ ban tập trung chủ yếu vào trách nhiệm cá nhân hơn là quy tắc của luật quốc tế trong việc ngăn cấm các cuộc xâm lược do quốc gia tiến hành.

Điều 5 – Quy chế Rome cũng quy định: “Tòa án sẽ thực hiện quyền tài phán đối với tội xâm lược khi một quy định về định nghĩa tội xâm lược và các điều kiện để Tòa án thực hiện quyền tài phán đối với tội này được thông qua theo các Điều 121 và Điều 123. Quy định này phải phù hợp với các quy định có liên quan của Hiến chương Liên hợp quốc.

Ngày 15/6/2010, tại Hội nghị kiểm điểm hoạt động của Tòa án hình sự quốc tế (ICC) kéo dài hai tuần qua ở thủ đô Kampala của Uganda, các nước thành viên ICC đã đạt được thỏa thuận về định nghĩa “tội ác xâm lược”, kết thúc cuộc tranh luận kéo dài một thập kỷ về luật quốc tế.[2] Các nước thỏa thuận sửa đổi Công ước Rome về thành lập ICC, theo đó “tội ác xâm lược” được định nghĩa là “vạch kế hoạch, chuẩn bị, khởi xướng hoặc thừa hành bởi một người thực sự có quyền kiểm soát, hoặc ra lệnh tiến hành hành động chính trị hoặc quân sự của một nước, một hành động xâm lược mà theo tính chất nghiêm trọng và quy mô vi phạm rõ ràng Hiến chương Liên hợp quốc”. Tổng Thư ký Liên hợp quốc đã ra tuyên bố hoan nghênh và gọi đó là “thỏa thuận lịch sử” về “tội ác xâm lược”. Văn bản thỏa thuận này là một bước tiến trong cuộc chiến chống lại mọi sự lẩn tránh trừng phạt và tiến tới một kỷ nguyên trách nhiệm.

Theo nghị quyết của Hội nghị Kampala, các cuộc phong tỏa cảng hoặc bờ biển của một nước bởi lực lượng vũ trang của một nước khác cũng như một cuộc xâm lăng hoặc tấn công của một nước vào lãnh thổ nước khác đều bị coi là hành động xâm lược. ICC có thể thực hiện quyền truy tố và xét xử các tội ác xâm lược.

Tuy nhiên, thỏa thuận này chỉ có hiệu lực sau một năm có ít nhất 30 nước thành viên ICC phê chuẩn điều khoản sửa đổi nói trên. Điều đó có nghĩa là thỏa thuận chỉ có hiệu lực sớm nhất là sau năm 2017, khi các nước thành viên ICC họp hội nghị xem xét lại điều khoản sửa đổi này.

2. Quy định về tội ác quốc tế trong pháp luật hình sự Việt Nam:

Ngay từ khi Quy chế Rome chưa được thông qua, Việt Nam đã cử chuyên gia theo dõi và nghiên cứu vấn đề ICC thông qua các phiên họp của Uỷ ban đặc biệt và Uỷ ban trù bị thành lập ICC (năm 1995). Nhận thức được tầm quan trọng của ICC, chúng ta cũng đã cử đoàn tham dự phiên họp cuối cùng của Uỷ ban trù bị từ 16/03 đến 03/04/1998 để hoàn tất dự thảo Quy chế. Tại Hội nghị ngoại giao về thành lập ICC, Việt Nam cũng ủng hộ sự ra đời của Toà án này. Quy chế Rome về thành lập ICC xét xử tội ác quốc tế đem lại công lý, giữ gìn hoà bình và an ninh quốc tế phù hợp với mục tiêu mà Nhà nước ta đặt ra. Do vậy, gia nhập Quy chế Rome chắc chắn sẽ nhận được sự ủng hộ của nhân dân Việt Nam.

Một số nội dung đề cập trong Quy chế Rome cũng đã được ghi nhận trong một số văn bản pháp lý quốc tế về nhân quyền mà Nhà nước Việt Nam đã phê chuẩn và tham gia. Việt Nam là thành viên của các Công ước, như Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng năm 1948; Công ước về không áp dụng các hạn chế về thời hiệu tố tụng đối với các tội phạm chiến tranh và tội phạm chống nhân loại 1968 và 4 Công ước Giơnevơ về bảo hộ nạn nhân chiến tranh 1948 cùng với Nghị định thư bổ sung số I. Trong các Điều ước quốc tế này quy định nghĩa vụ của các quốc gia thành viên là phải truy tố các tội diệt chủng, tội ác chíên tranh tương tự như nghĩa vụ gián tiếp mà Quy chế Rome đặt ra. Do đó nghĩa vụ mà Quy chế Rome yêu cầu trên thực tế đã được Việt Nam tuân thủ và thực hiện một phần với tư cách là thành viên của các Điều ước quốc tế trên.

Nếu xem xét từ phía pháp luật hình sự và pháp luật Tố tụng hình sự đang có hiệu lực ở Việt Nam thì nhiều nội dung trong đó có sự tương đồng với Quy chế Rome. Cụ thể là đối với pháp luật hình sự, những quy định về tội phạm thuộc thẩm quyền tài phán của ICC, như tội xâm lược (Điều 5), tội chống nhân loại (Điều 7), tội phạm chiến tranh (Điều 8) cũng đã được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam 1999 tương ứng ở các Điều sau:

– Điều 341 Bộ luật hình sự Việt Nam 1999 quy định về Tội phá hoại hoà bình, gây chiến tranh xâm lược;

“Người nào tuyên truyền, kích động chiến tranh xâm lược hoặc chuẩn bị, tiến hành, tham gia chiến tranh xâm lược nhằm chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ một nước khác, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.”

– Điều 342 Bộ luật hình sự Việt Nam 1999 quy định về Tội chống loài người;

“Người nào trong thời bình hay trong chiến tranh mà có hành vi tiêu diệt hàng loạt dân cư của một khu vực, phá hủy nguồn sống, phá hoại cuộc sống văn hóa, tinh thần của một nước, làm đảo lộn nền tảng của một xã hội nhằm phá hoại xã hội đó, cũng như có những hành vi diệt chủng khác hoặc những hành vi diệt sinh, diệt môi trường tự nhiên, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.”

– Điều 343 Bộ luật hình sự Việt Nam 1999 quy định về Tội phạm chiến tranh.

“Người nào trong thời kỳ chiến tranh mà ra lệnh hoặc trực tiếp tiến hành việc giết hại dân thường, người bị thương, tù binh, cướp phá tài sản, tàn phá các nơi dân cư, sử dụng các phương tiện hoặc phương pháp chiến tranh bị cấm, cũng như có những hành vi khác vi phạm nghiêm trọng pháp luật quốc tế hoặc các điều ưước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.”

– Điều 344 Bộ luật hình sự Việt Nam 1999 quy định về Tội tuyển mộ lính đánh thuê; tội làm lính đánh thuê;

“Người nào tuyển mộ, huấn luyện hoặc sử dụng lính đánh thuê nhằm chống lại một nước bạn của Việt Nam hoặc một phong trào giải phóng dân tộc, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân. Người nào làm lính đánh thuê, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.”

Mặc dù Bộ luật hình sự Việt Nam chưa có quy định về tội diệt chủng và các tội nêu trên chưa cụ thể như Quy chế Rome, song những nội dung cơ bản về cấu thành tội phạm giữa hai văn bản có những điểm tương đồng, thuận lợi cho việc viện dẫn, áp dung pháp luật trong quá trình thực thi.

Ngoài ra, còn có sự phù hợp giữa pháp luật hình sự Việt Nam với Quy chế Rome ở các nguyên tắc chung của luật hình sự, như trách nhiệm hình sự cá nhân, không áp dụng thời hiệu, không có tội khi không có luật, không có hình phạt khi không có luật,…và các căn cứ loại trừ trách nhiệm hình sự.

Đối với pháp luật Tố tụng hình sự, các trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự đối với loại tội phạm phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam 2005. Hầu hết các nguyên tắc, như xét xử công bằng, khách quan, không để lọt tội phạm, không kết án oan người vô tội, bảo vệ chứng cứ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người vô tội,… đều được quy định trong cả Quy chế Rome và Bộ luật Tố tụng hình sự của Việt Nam. Không chỉ có vậy, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 còn có 2 chương (XXXVI và XXXVII) quy định về hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự, trong đó nhiều quy định về dẫn độ, chuyển giao hồ sơ, tài liệu vật chứng,…phù hợp với quy định của Quy chế Rome. Những sự tương đồng trên sẽ giảm một phần gánh nặng nghĩa vụ cho Việt Nam khi gia nhập Quy chế Rome./.

ThS.LS. Đỗ Minh Ánh-Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội

Công ty luật sài gòn, văn phòng luật sài gòn, dịch vụ luật sài gòn, luat su tu van