Hiểu tổng quan thì, Hợp đồng thương mại điện tử là hình thức thể hiện của các hoạt động thương mại điện tử. Hợp đồng thương mại điện tử trước tiên là hợp đồng được xác lập nhằm thực hiện các hoạt động thương mại điện tử. Đây là hình thức có giá trị pháp lý của các hoạt động thương mại điện tử.
1. Khái niệm hợp đồng thương mại điện tử
Luật mẫu của UNCITRAL về thương mại điện tử cũng như pháp luật của nhiều nước trên thế giới không đưa ra định nghĩa thế nào là hợp đồng thương mại điện tử và thường chỉ đưa ra quy định thừa nhận giá trị pháp lý của hợp đồng được xác lập thông qua các phương tiện điện tử. Hợp đồng được xác lập thông qua phương . tiện điện tử được hiểu tương đối thống nhất trong quy định của pháp luật các nước. Đây là hợp đồng được ký kết thông qua việc sử dụng những phương tiện truyền các thông điệp dữ liệu. Các hợp đồng này được gọi chung là hợp đồng điện tử.
Pháp luật Việt Nam có xác định khái niệm hợp đồng điện tử, theo đó:
“Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu theo quy định của Luật này” (Điều 33 Luật Giao dịch điện tử năm 2005).
Như vậy, có thể hiểu hợp đồng thương mại điện tử là hợp đồng thương mại được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu theo quy định của Luật Giao dịch điện tử. Thông qua các thông điệp dữ liệu được gửi và nhận giữa các chủ thể, hợp đồng điện tử được thiết lập. Phương tiện điện tử là một trong những cơ sở để phân biệt hợp đồng điện tử với hợp đồng thông thường. Nếu như phương tiện thực hiện trong giao dịch truyền thống chủ yếu được thực hiện thông qua lời nói, hành vi hay văn bản giấy tờ thì phương tiện thực hiện trong giao dịch điện tử là những phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kĩ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự.
2. Đặc điểm của hợp đồng thương mại điện tử
Hợp đồng thương mại điện tử trước hết có những đặc điểm cơ bản của hợp đồng thương mại. Xét về bản chất, hợp đồng thương mại điện tử có những thuộc tính của hợp đồng thương mại truyền thống. Tuy nhiên, do được xác lập thông qua các phương tiện điện tử, nên hợp đồng thương mại điện tử có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, về chủ thể của hợp đồng thương mại điện tử
Căn cứ vào quy định tại Luật Thương mại, chủ thể của hợp đồng thương mại phải có ít nhất một bên là thương nhân. Do vậy, chủ thể của hợp đồng thương mại điện tử cũng phải đáp ứng yêu cầu này. Là một bên của hợp đồng thương mại điện tử, thương nhân có thể trực tiếp giao kết hợp đòng với khách hàng thông qua website thương mại điện tử do mình tự thiết lập hoặc cũng có thể thông qua sàn giao dịch thương mại điện tử hoặc website thương mại điện tử hoặc website đấu giá trực tuyến do các thương nhân, tổ chức, cá nhân khác thiết lập để giao kết hợp đồng. Khách hàng có thể là thương nhân, cũng có thể là các tổ chức, cá nhân chấp nhận giao kết hợp đồng với thương nhân trên cơ sở các thông tin đã được công khai trên các trang thông tin điện tử.
Khi đối tượng của hợp đồng là hàng hoá, dịch vụ kinh doanh có điều kiện, các chủ thể của hợp đồng cũng phải đáp ứng các điều kiện kinh doanh này. Trường hợp pháp luật yêu cầu phải cỏ giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh đối với hàng hoá, dịch vụ đó, thương nhân bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ phải cung cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh đó cho thương nhân chủ website thương mại điện tử. Trường hợp thương nhân bán hàng cũng là chủ website thương mại điện tử, thì phải công bố trên website của mình số, ngày cấp, nơi cấp giấy chứng nhận đủ điềú kiện kinh doanh.
Khác với các hợp đồng thương mại truyền thống, việc xác định các chủ thể của hợp đồng hay còn gọi là các bên của hợp đồng thương mại điện tử gặp không ít khó khăn trong một số trường hợp. Các bên của hợp đồng thường hay bị nhầm lẫn với các chủ thể khác tham gia hoạt động thương mại điện tử, đặc biệt khi các chủ thể này là các thương nhân, tổ chức thiết lập website thương mại điện tử để cung cấp môi trường điện tử cho thương nhân, tổ chức, cá nhân khác tiến hành hoạt động xúc tiến thương mại, bán hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ.
Ví dụ, trên các website thương mại điện tử nhommua, cucre,… thường có sự nhầm lẫn giữa thương nhân là chủ sở hữu của website với thương nhân có hàng hoá, dịch vụ bán, cung ứng được đưa lên website.
Do vậy, trong hợp đồng thương mại điện tử, cần phân biệt chủ thể của hợp đồng với chủ thể cung cấp dịch vụ thương mại điện tử, dù trong một số trường hợp các chủ thể này có thể là một (trường hợp hoạt động thương mại trên website thương mại điện tử). Việc xác định chủ thể của hợp đồng được giao kết trên các phương tiện điện tử hết sức quan trọng, bởi khi xác định được đúng các chủ thể của hợp đồng mới xác định được rõ trách nhiệm của các chủ thể. Trong trường hợp, chủ website thương mại điện tử không phân định rõ trách nhiệm của mình với chủ thể của hợp đồng, chủ website thương mại điện tử sẽ phải liên đới chịu trách nhiệm với chủ thể của hợp đồng. Chủ vvebsite thương mại điện tử phải chịu trách nhiệm về các thông tin của thương nhân, tổ chức, cá nhân là người bán trên website thương mại điện tử của mình. Đây là nghĩa vụ của chủ thể cung cấp dịch vụ thương mại điện tử. Do vậy, các chủ thể này có quyền yêu cầu các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng trên các website thương mại điện tử của mình phải cung cấp đầy đủ chính xác thông tin và có cơ chế giám sát, kiểm tra về tính chính xác, đầy đủ của các thông tin do các chủ thể đó cung cấp.
Với quy định nêu trên, trong một số trường hợp, các chủ thể cung cấp dịch vụ thương mại điện tử có thể chịu trách nhiệm khi có tranh chấp phát sinh. Cụ thể, các chủ thể cung cấp dịch vụ thương mại điện tử phải trực tiếp chịu trách nhiệm tiếp nhận, xử lý khiếu nại của khách hàng , và giải quyết các tranh chấp liên quan đến hợp đồng được giao kết trên website của mình, nếu không công bố rõ thông tin về giới hạn trách nhiệm của mình, cũng như quy trình tiếp nhận và trách nhiệm xử lý khiếu nại của khách hàng và cơ chế giải quyết tranh chấp liên quan đến hợp đồng được giao kết trên website thương mại điện tử do mình thiết lập. Quy định này tạo nên đặc thù về chủ thể hợp đồng thương mại điện tử.
Pháp luật về hoạt động thương mại điện tử yêu cầu trách nhiệm cụ thể về thông tin đối với từng loại chủ thể (chủ thể cung cấp dịch vụ thương mại điện tử và chủ thể của hợp đồng), khi tham gia vào từng loại hoạt động thương mại điện tử. Tuy nhiên, dù tham gia vào loại hoạt động thương mại điện tử nào thì các chủ thể cung cấp dịch vụ thương mại điện tử và các chủ thể của hợp đồng phải cung cấp đầy đủ thông tin về chủ sở hữu website, về hàng hoá, dịch vụ và các điều khoản của hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ được giới thiệu trên website. Các thông tin này phải đáp ứng các yêu cầu như:
– Rõ ràng, chính xác, dễ hiểu;
– Được sắp xếp tại các mục tương ứng trên website và có thể truy cập bằng phương pháp trực tuyến;
– Có khả năng lưu trữ và hiển thị được về sau;
– Được hiển thị rõ đối với khách hàng trước thời điểm khách hàng gửi đề nghị giao kết hợp đồng.
Thứ hai, về giao kết hợp đồng thương mại điện tử
Quy trình giao kết hợp đồng thương mại điện tử cũng có một số đặc thù so với quy trình giao kết hợp đồng thương mại thông thường. Theo quy định của pháp luật chung về giao kết hợp đồng, hợp đồng được hình thành trên cơ sở một bên đưa ra đề nghị giao kết và một bên chấp nhận đề nghị giao kết. Đối với hợp đồng thương mại điện tử, quy trình này có thể được tiên hành một phần hoặc toàn bộ bằng phương tiện điện tử, thông qua các thông điệp dữ liệu. Chính vì vậy, các quy định liên quan đến việc xác định đề nghị giao kết, xác định chấp nhận đề nghị giao kết, thời điểm có hiệu lực của đề nghị giao kết, của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng và thời điểm hình thành hợp đồng có một số điểm khác biệt so với quy định của pháp luật chung.
Pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử có quy định điều chỉnh quy trình giao kết hợp đồng thương mại điện tử nói chung và quy trình giao kết hợp đồng có sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến trên website thương mại điện tử nói riêng.
– Đôi với quy trình giao kết hợp đồng thương mại điện tử nói chung Pháp luật công nhận giá trị pháp lý như bản gốc của các chứng từ điện tử trong giaó dịch thương mại khi đáp ứng một số điều kiện nhất định. Các chứng từ điện tử trong giao dịch thương mại (gọi tắt là chứng từ điện tử) là thuật ngữ được sử dụng để áp dụng chung cho các hợp đồng, đề nghị, thông báo, xác nhận hoặc các tài liệu khác ở dạng thông điệp dữ liệu do các bên đưa ra liên quan đến việc giao kết hay thực hiện hợp đồng. Để được công nhận giá trị pháp lý như bản gốc, các chứng từ điện tử cần phải đáp ứng cả hai điều kiện sau:
+ Bảo đảm đủ tin cậy về tính toàn vẹn của thông tin chứa trong chứng từ điện tử từ thời điểm thông tin được khởi tạo lần đầu tiên dưới dạng chứng từ điện tử. Tiêu chí để đánh giá tính vẹn toàn của thông tin chứa trong chứng từ điện tử là thồng tin còn đầy đủ và chưa bị thay đổi, ngoài những thay đổi về hình thức phát sinh trong quá trình trao đổi, lưu trữ và hiển thị chứng từ điện tử. Tính bảo đảm đủ tin cậy được xác định khi một trong những biện pháp sau được áp dụng trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên trao đổi và sử dụng chứng từ điện tử:
– Ký chứng từ điện tử bằng chữ ký số do tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số hợp pháp cấp;
– Lưu trữ chứng từ điện tử tại hệ thống của một tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực hợp đồng điện tử đã được cấp phép mà các bên thỏa thuận lựa chọn;
– Có sự bảo đảm từ phía thương nhân, tổ chức cung cấp hạ tầng cho việc khởi tạo, gửi và lưu trữ chứng từ điện tử về tính toàn vẹn của thông tin chứa trong chứng từ điện tử trong quá trình gửi và lưu trữ trên hệ thống;
– Biện pháp khác mà các bên thống nhất lựa chọn.
+ Bảo đảm khả năng truy cập và sử dụng được dưới dạng hoàn chỉnh khi cần thiết. Đây là yêu cầu đặt ra cho các thông điệp dữ liệu nói chung khi muốn được công nhận là có giá trị pháp lý như bản gốc.
Một đề nghị hay chấp nhận đề nghị giao kết hợp đông được coi là gửi đi dưới dạng thông điệp dữ liệu khi thông điệp dữ liệu đó rời khỏi hệ thống thông tin dưới sự kiểm soát của người khởi tạo hay đại diện của người khởi tạo. Trong trường hợp chứng từ điện tử đó không rời hệ thống thông tin dưới sự kiểm soát của người khởi tạo hay đại diện của người khởi tạo thì thời điểm gửi là thời điểm nhận được chứng từ điện tử đó. Trường hợp các bên không có thỏa thuận khác, thời điểm nhận một chứng từ điện tử là thời điểm chứng từ điện tử đó tới được địa chỉ điện tử do người nhận chỉ ra và có thể truy cập được. Đe đảm bảo bên kia nhận được chứng từ điện tử do mình gửi, bên gửi có quyền yêu cầu hoặc thỏa thuận với bên nhận về việc bên nhận phải gửi thông báo xác nhận khi nhận được chứng từ điện tử và ấn định một khoảng thời gian hợp lý để bên nhận gửi xác nhận. Trong trường hợp này, chửng từ điện tử chỉ được coi là có giá trị pháp lý khi bên nhận thông báo cho bên gửi và có sự xác nhận về việc đã nhận được chứng từ điện tử đó.
Các quy định này được áp dụng đối với những hợp đồng được xác lập qua thư điện tử và những hình thức điện tử khác như Chat, fax,…
Quy định của pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử cũng thống nhất với quy định của pháp luật chung về các điều kiện cần phải đáp ứng để được coi là đề nghị giao kết hợp đồng. Cụ thể, một thông báo bằng chứng từ điện tử về đề nghị giao kết hợp đồng mà không có bên nhận cụ thể thì chỉ là thông báo mòi đề nghị giao kết hợp đồng, chứ không được coi là đề nghị giao kết hợp đồng, trừ khi bên thông báo chỉ rõ tại thông báo đó trách nhiệm của mình trong trường hợp nhận được trả lời chấp nhận.
Với đặc thù của việc giao kết hợp đồng thông qua phương tiện điện tử, các chủ thể khó có thể thay đổi hay rút lại đề nghị giao kết hợp đồng cũng như chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng như giao kết hợp đồng bằng các phương tiện thông thường. Do vậy, pháp luật không có quy định về các trường hợp này trong giao kết hợp đồng thương mại điện tử.
– Đối với quy trình giao kết hợp đồng thương mại điện tử có sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyên
Pháp luật có quy định đặc thù về trường họp giao kết hợp đồng có sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến trên website thương mại điện tử. Các thông tin giới thiệu về hàng hoá, dịch vụ và các điều khoản liên quan chỉ được coi là thông báo mời đề nghị giao kết hợp đồng của thương nhân. Nếu một website thương mại điện tử có chức năng đặt hàng trực tuyển cho từng hàng hoá, dịch vụ cụ thể được giới thiệu trên website đó, thì các thông tin giới thiệu về hàng hoá, dịch vụ và các điều khoản có liên quan được xem là thông báo về đề nghị giao kết hợp đồng của thương nhân sở hữu hàng hoá, dịch vụ đó. Chỉ chứng từ điện tử do khách hàng khởi tạo và gửi đi bằng cách sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến mới được coi là đề nghị giao kết hợp đồng củạ khách hàng đối với hàng hoá hoặc dịch vụ gắn kèm chức năng đặt hàng trực tuyến đó.
Dù không có quy định liên quan đến sửa đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng, nhung pháp luật yêu cầu website thương mại điện tử phải có cơ chế cho phép khách hàng rà soát, bổ sung, sửa đổi và xác nhận nội dung giao dịch trước khi sử dụng chức năng trực tuyến để gửi đề nghị giao kết hợp đồng. Cơ chế rà soát và xác nhận này phải đáp ứng các điều kiện sau:
+ Hiển thị cho khách hàng những thông tin sau: Tên hàng hoá hoặc dịch vụ, số lượng và chủng loại; phương thức và thời hạn giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ; tổng giá trị của hợp đông và các chi tiết liên quan đến phương thức thanh toán được khách hàng lựa chọn. Những thông tin này phải có khả năng lưu trữ, in ấn được trên hệ thống thông tin của khách hàng và hiển thị được về sau.
+ Hiển thị cho khách hàng những thông tin về cách thức trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng và thời hạn trả lời đề nghị giao kết hợp đồng.
+ Cho phép khách hàng sau khi rà soát những thông tin nói trên được lựa chọn hủy giao dịch hoặc xác nhận việc đề nghị giao két hợp đồng.
Trường hợp có lỗi nhập thông tin trong một chứng từ điện tử được sử dụng để trao đối với hệ thống thông tin tự động của bên khác, nhưng hệ thống tự động này không hỗ trợ cho người đó sửa lỗi thì người đó hoặc thương nhân, tổ chức, cá nhân mà người đó đại diện có quyền rút bỏ phần chứng từ điện tử có lỗi, nếu đáp ứng hai điều kiện sau:
+ Ngay khi biết có lỗi, người đó hoặc thương nhân, tổ chức, cá nhân mà người đó đại diện thông báo cho bên kia về lỗi và nêu rõ đã mắc phải lỗi trong chứng từ điện tử này.
+ Người đó hoặc thương nhân, tổ chức, cá nhân mà người đó đại diện vẫn chưa sử dụng hoặc có được bất kì lợi ích vật chất hay giá trị nào từ hàng hoá, dịch vụ nhận được từ bên kia.
Trường hợp thương nhân bán hàng có công bố thời hạn trả lời đề nghị giao kết hợp đồng, nếu hết thời hạn này mà khách hàng vẫn không nhận được trả lời thì đề nghị giao kết hợp đồng của khách hàng chấm dứt hiệu lực. Việc trả lời chấp nhập sau thời hạn này được coi là một đề nghị giao kết hợp đồng khác từ phía thương nhân bán hàng.
Trường hợp thương nhân bán hàng không công bố thời hạn trả lời đề nghị giao kết hợp đồng, nếu trong khoảng thời gian nhất định kể từ khi gửi đề nghị giao kết hợp đồng, khách hàng không nhận được trả lời đề nghị giao kết hợp đồng thì đề nghị giao kết hợp đồng của khách hàng được coi là chấm dứt hiệu lực ?
Việc trả lời chấp nhận hoặc không chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng phải được thể hiện dưới hình thức phù hợp để thông tin có thể lưu trữ, in và hiển thị được tại hệ thống thông tin của khách hàng. Khi trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng của khách hàng, thương nhân phải cung cấp các thông tin như: Danh sách toàn bộ hàng hoá hoặc dịch vụ mà khách hàng đặt mua, số lượng và giá của từng sản phẩm và tổng giá trị của hợp đồng; thời hạn giao hăng và cung ứng dịch vụ; thông tin liên hệ để khách hàng có thể hỏi về tình hạng thực hiện hợp đồng khi cần thiết.
Thời điểm giao kết hợp đồng khi sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến trên website thương mại điện tử là thời điểm khách hàng nhận được trả lời của thương nhân bán hàng chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Đó là thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận đề nghị giao kết. Cụ thể, đối với hợp đồng được giao kết khi sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến trên website thương mại điện tử, thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm khách hàng nhận được trả lời của thương nhân, tổ chức, cá nhân bán hàng chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Thứ ba, về hiệu lực của hợp đồng thương mại điện tử
Hợp đồng thương mại điện tử được giao kết và phát sinh hiệu lực tuân theo quy định của pháp luật chung về hợp đồng. Tại thời điểm chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng phát sinh hiệu lực, hợp đồng sẽ hình thành. Hợp đồng phát sinh hiệu lực tại thời điểm hợp đồng được giao kết, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Theo điều 20 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013 về thương mại điện từ quy định thời gian này là trong vòng 12 giờ (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 08/2018/NĐ-CP).
Pháp luật có quy định cụ thể đối với trường họp chấm dứt hợp đồng đối với hợp đồng dịch vụ thương mại điện tử và các dịch vụ trực tuyến khác. Trong thực tiễn, có nhiều hợp đồng cung cấp dịch vụ thương mại được xác lập thông qua phương tiện điện tử như hợp đồng cung cấp dịch vụ mạng internet, thuê bao điện thoại, dịch vụ ngân hàng… Đối với những trường hợp này, pháp luật quy định các website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử và các website cung cấp dịch vụ trực tuyến khác phải cung cấp công cụ trực tuyến để khách hàng có thể gửi thông báo chấm dứt hợp đồng khi hết nhu cầu sử dụng dịch vụ. Công cụ này phải đáp ứng các điều kiện:
– Cho phép khách hàng lưu trữ và hiển thị thông báo chấm dứt hợp đồng trong hệ thống thông tin của mình sau khi gửi đi;
– Có cơ chế phản hồi để khách hàng biết thông báo chấm dứt hợp đồng của mình đã được gửi.
Website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử và website cung cấp các dịch vụ trực tuyến khác phải công bố thông tin minh bạch, đầy đủ về quy trình, thủ tục chấm dứt hợp đồng, bao gồm các nội dung sau:
+ Các trường hợp thương nhân, tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ chấm dứt hợp đồng và cách thức giải quyết hậu quả của việc chấm dứt hợp đồng này;
+ Thời điểm hợp đồng chấm dứt hiệu lực và cách thức thanh toán phí dịch vụ trong trường họp khách hàng là bên chấm dứt hợp đồng;
+ Nếu website không công bố rõ thời điểm hợp đồng chấm dứt hiệu lực trong trường họp khách hàng là bên chấm dứt hợp đồng, thì thời điểm khách hàng gửi thông báo được coi là thời điểm hợp đồng chấm dứt.
Thứ tư, về đối tượng của hợp đồng thương mại điện tử
Theo pháp luật thương mại thì các chủ thể có quyền thực hiện hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ không bị pháp luật cấm hay hạn chế kinh doanh do Chính phủ quy định cụ thể. Hoạt động thương mại điện tử cũng phải tuân thủ những quy định này và ngoài ra cần lưu ý thêm các quy định hướng dẫn của Bộ Công Thương.
Ví dụ như: Thương nhân, tổ chức, cá nhân không được sử dụng website thương mại điện tử để kinh doanh các hàng hoá hạn chế kinh doanh như:
– Súng săn và đạn súng săn, vũ khí thể thao, công cụ hỗ trợ;
– Thuốc lá điếu, xì gà và các dạng thuốc lá thành phẩm khác;
– Rượu các loại;
– Thực vật, động vật hoang dã quý hiếm, bao gồm cả vật sống và các bộ phận của chứng đã được chế biến;
– Các hàng hoá hạn chế kinh doanh khác theo quy định của pháp luật (Khoản 1 Điều 3 Thông tư số 47/2014/TT-BCT củạ Bộ Công Thương quy định về quản lý website thương mại điện tử (được sửa đổi, bổ sung theo Thông tư số 04/2016/TT-BCT, Thông tư số 21/2018/TT-BCT và Thông tư số 42/2019/TT-BCT).
Đối với những thương nhân thiết lập website để bán các hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục hàng hoá, dịch vụ kinh doanh mà có điều kiện cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh thì phải công bố trên website của mình số, ngày cấp và nơi cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh đối với hàng hoá, dịch vụ đó.
Đối với các thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ thương mại điện tử, mặc dù họ không phải người bán trực tiếp nhưng họ phải có trách nhiệm ngăn chặn và loại bỏ khỏi website những thông tin bán hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh theo quy định của pháp luật và hàng hoá không được kinh doanh trên các website thương mại điện tử. Đồng thời, chủ website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử phải loại bỏ khỏi website những thông tin bán hàng giả, hàng nhái, hàng nhập lậu, hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và các hàng hoá, dịch vụ vi phạm pháp luật khác khi phát hiện hoặc nhận được phản ánh có căn cứ xác thực về những thông tin này. Để kiểm soát một cách chặt chẽ những hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục hàng hoá, dịch vụ kinh doanh có điều kiện mà các thương nhân, tổ chức khác tiến hành hoạt động thương mại trên website của mình thì thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ thương mại điện tử qua website phải yêu cầu người bán cung cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh đối với hàng hoá, dịch vụ đó trong trường hợp pháp luật quy định phải có giấy này.
Pháp luật nhân mạnh đến vai trò và trách nhiệm của chủ website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử trong việc kiểm soát những hàng hoá, dịch vụ được giao dịch trên website của mình. Chủ sở hữu website khuyến mại trực tuyến, đẩu giá trực tuyến cũng như sàn giao dịch điện tử phải nắm chắc được các chủ thể bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ đang hoạt động trên website của mình kinh doanh những mặt hàng gì, có đủ điều kiện được kinh doanh hay không, có đúng với quy định của pháp luật hay không… Quy định như vậy nhằm tạo môi trường kinh doanh rõ ràng, minh bạch, hạn chế việc người bán hàng lợi dụng những ưu thế của mình trong việc giao kết và thực hiện hợp đồng trên website thương mại điện tử mà chèn ép, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng.
Thứ năm, về hình thức của hợp đồng thương mại điện tử
Trong hoạt động thương mại truyền thông, pháp luật quy định ba hình thức của hợp đồng, trong đó có hợp đồng được giao kết bằng lời nói, bằng hành vi cụ thể hoặc bằng văn bản. Trong một số trường hợp, pháp luật yêu cầu phải được thiết lập dưới hình thức văn bản, như hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Đối với hợp đồng thương mại điện tử, do việc giao kết hợp đồng này không thuộc các hình thức như hợp đồng truyền thống mà các điều khoản của hợp đồng xuất hiện trên website thương mại điện tử và được thiết lập dưới dạng các thông điệp dữ liệu thay vì được viết hay in ra giấy như hợp đồng thông thường.
Trong hoạt động thương mại, các thông điệp dữ liệu đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn kĩ thuật theo quy định cùa pháp luật thì được thừa nhận có giá trị pháp lý tương đương văn bản (Luật Thương mại năm 2005). Thông tin trong thông điệp dữ liệu không bị phủ nhận giá trị pháp lý chỉ vì thông tin đó được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu. Trường hợp pháp luật yêu cầu thông tin phải được thể hiện bằng văn bản thì thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng yêu cầu này nếu thông tin chứa trong thông điệp dữ liệu đó có thể truy cập và sử dụng được để tham chiếu khi cần thiết (Luật Giao dịch điện tử năm 2005 (Điều 11,12).
Như vậy, với các yêu cầu đối với hợp đồng được xác lập trên website thương mại điện tử là phải đảm bảo có thể truy cập và sử dụng được để tham chiếu khi cần thiết thì các hợp đông được thiết lập trên các website này đều phải được xác lập dưới hình thức văn bản. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho các bên khi xảy ra tranh chấp.
Thứ sáu, về nội dung của hợp đồng trên website thương mại điện tử
Đối với hợp đồng thương mại điện tử, pháp luật không có yêu cầu chung về nội dung của loại hợp đồng này. Tuy nhiên, đối với hợp đồng được xác lập trên website thương mại điện tử có sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến thì pháp luật yêu cầu phải có đầy đủ các nội dung như:
– Tên hàng hoá hoặc dịch vụ, về số lượng và chủng loại;
– Phương thức và thời hạn giao hàng, cung ứng dịch vụ;
– Tổng giá trị của hợp đồng và các chi tiết liên quan đến phương thức thanh toán được khách hàng lựa chọn. Đây là những nội dung mà pháp luật yêu cầu phải có trong hợp đồng và phải có khả năng lưu trữ, in ấn được trên hệ thống thông tin của khách hàng và hiển thị được về sau.
Để hợp đồng thương mại điện tử có giá trị như bản gốc, hợp đồng cần thỏa mãn đồng thời các điều kiện như:
– Nội dung của hợp đồng được bảo đảm toàn vẹn kể từ khi được khởi tạo lần đầu tiên dưới dạng thông điệp dữ liệu hoàn chỉnh;
– Nội dung của hợp đồng có thể truy cập được và sử dụng dưới dạng hoàn chỉnh khi cần thiết.
Để giúp phát hiện những thay đổi phát sinh sau khi hợp đồng đã được các bên thống nhất, các bên có thể gắn chữ ký điện tử. Chữ ký điện tử không chỉ xác định người ký hợp đồng mà còn giúp xác minh được tính toàn vẹn của nội dung hợp đồng. Thông thường, chữ ký điện tử trong các hợp đồng thương mại điện tử được thể hiện dưới dạng chữ ký tay hoặc hình ảnh của các bên. Nếu có sự thay đổi về nội dung của hợp đồng, chữ ký sẽ biến mất. Để đảm bảo an toàn cao hơn cho chữ ký điện tử, các bên cũng có thể thống nhất về việc chứng thực chữ ký do một tổ chức được công nhận thực hiện. Hợp đồng thương mại điện tử có giá trị như chứng cứ khi đáp ứng đủ các điều kiện về giá trị như bản gốc.